cù lao chín chữ ghi lòng con ơi
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. Gợi ý: (1) Tìm hiểu đề-Yêu cầu: trình bày cảm xúc, tình cảm, đánh giá-Nội dung: công lao của cha mẹ, đạo làm con-Nghệ thuật: so sánh, đối xứng, hình ảnh giàu ý nghĩa-Phương thức: biểu cảm (2) Lập dàn ý *Mở bài (mở đoạn):
TQ13 - CHÍN CHỮ CÙ LAO. CHÍN CHỮ CÙ LAO . TRẦN QUÊ HƯƠNG . I. "Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã. Phủ ngã, súc ngã, trưởng ngã, dục ngã. Cố ngã, phục ngã, xuất nhập phúc ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực". Cha sinh ra ta, mẹ nâng đỡ ta. Vuốt ve ta, cho ta bú, nuôi ta
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! A. là lời của anh em nói với nhau. B. là lời của mẹ ru, nói với con. C. là lời của ông bà nói với cháu. D. tất cả đều đúng. Lớp 7 Ngữ văn. 2. 0. Gửi Hủy. Đông Hải CTV; 4 tháng 12 2021 lúc 13:50 D. Đúng 0. Bình luận (0)
Tạo bài viết mới Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi… Gia đình là mái ấm hạnh phúc lớn nhất mà ta từng có, nơi đó ta được Cha Mẹ yêu thương chăm sóc, lo lắng, bảo bộc cho ta từng ngày. Hạnh phúc gia đình là thứ quý giá nhất trong cuộc sống. Không ai trong chúng ta có thể
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi" Những lí lẽ và dẫn chứng trên đã một lần nữa khẳng định sự đúng đắn của câu ca dao trên , khẳng định đó cũng chính là một chân lí của cuộc sống , một cơ sở đạo đức của xã hội , của con người .
download papan data guru dan pegawai excel. Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Bài ca dao này đã làm xúc động lòng người bởi đã gợi nên công ơn trời bể của cha mẹ đối với những người con thân yêu của mình. Tác giả dân gian nhắc đến “công cha”, “nghĩa mẹ”, đó là công sinh thành, dưỡng dục; đó là ơn nghĩa mang nặng đẻ đau và những yêu thương mẹ dành cả cho con. Ví “công cha”, “nghĩa mẹ” như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, tình mẫu tử so sánh với cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên. Ví công cha với núi ngất trời là khẳng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng và sự dạt dào. Đây cũng là một nét riêng trong tâm thức của người Việt. Hình ảnh người cha thì rắn rỏi, mạnh mẽ, cha như cột trụ trong gia đình. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ nhưng sâu xa, rộng mở và dạt dào cảm xúc hơn. Bởi vậy, nghĩ đến công ơn cha mẹ, bài ca dao thiết tha nhắn nhủ những người con “ghi lòng con ơi!” những công ơn trời bể ấy. Và hơn thế là định hướng về cách sống, cách bày tỏ lòng biết ơn dành cho cha cho mẹ.
Người xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh sống vùng kênh rạch sông nước , cứ từ nơi này qua nơi kia phải đi bằng ghe xuồng , nhứt là bơi xuồng qua mấy cái Cù Lao nho nhỏ nổi lên giữa sông , thí dụ như Cù Lao Ông Chưởng nổi tiếng trong các bài ca dao bài vè “Bao phen quạ nói với diều Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm”. Hay “Công cha như núi ngất trời. Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông. Cù Lao chín chữ ghi lòng con ơi!” Nói vậy chớ chữ Cù Lao nói về các hòn đảo nhỏ trên sông và chữ Cù Lao nói về công ân sanh thành của cha mẹ có liên quan gì nhau chăng? Cù lao Chàm là một điểm đến du lịch nổi tiếng ở Đà Nẵng Tôi xin được phân tách, hai chữ Cù Lao này đều ghi chữ Hán khác nhau hoàn toàn Thứ nhứt Cù Lao nghĩa trong “công ơn cha mẹ” tiếng Hán ghi là 苦勞, chánh xác phiên âm Hán Việt được ghi là “Khổ Lao” thay vì là Cù Lao như các bài ca dao trên. Khổ là Khổ cực , Lao tức Lao tâm tổn trí. Thứ hai chữ Cù Lao để nói về “đảo trên sông” được ghi là 劬勞, tiếng Hán Việt là “Cù Lao”. Hai chữ này ghép lại hoàn toàn vô nghĩa trong tiếng Hán. Đó chỉ là hình thức mượn chữ Hán để chỉ đọc lại tiếng “hòn đảo” từ tiếng gốc Mã Lai gọi là “pulau”, Các bạn sẽ thấy lạ là tại sao ở Nam kỳ lại có âm Mã Lai. Gốc Mã Lai chánh là gốc người nước Phù Nam cổ trên cùng đất này từ thế kỷ thứ 4 sau bị Chân Lạp thâu tóm thành Thuỷ Chân Lạp và sau này sát nhập với đất của các Chúa Nguyễn qua cuộc lương duyên với công nữ Ngọc Vạn. Trong câu “Bắc thang lên hỏi ông Trời” Thang = Tangga Mã Lai, và Trời cũng là tiếng Mã Lai cũng còn dùng hiện nay. “Thang” trong tiếng Việt bắt nguồn từ “Tangga” của tiếng Mã Lai Sau này khi người Việt và người Minh Hương tới đất Nam Kỳ, họ chỉ sử dụng tiếng Hán là chủ yếu nên đã Hán hóa một số từ ngữ bản địa thành ngôn của mình cho dễ đọc và ghi chép lại – trong đó có chữ Pulao của người Mã là Đảo. Phiên âm Hán Việt là 劬勞 cù lao vì vùng đất này là của Chân Lạp trước khi họ đến nên chắc là người Chân Lạp ko dùng Hán tự rồi. Việt Nam ta cũng có nhiều Pu Lao …như Cù lao Chàm, Cù lao Giêng, Cù lao Phố, Cù lao Rồng Dĩ nhiên là hai tiếng “cù lao” trên đây chẳng có liên quan gì đến hai tiếng cù lao dùng để nói về công lao cha mẹ. Một đằng là từ gốc Mã Lai còn một đằng lại là từ gốc Hán. “Cù lao” – Một đằng là từ gốc Mã Lai còn một đằng lại là từ gốc Hán Khi nói về “Công ân cha mẹ” chính xác phiên âm ra là chữ “Khổ Lao” hay “Cù Lao” phát âm từ tiếng Hán gần như nhau nên họ phát âm y xì. Rồi khi chữ Quốc Ngữ la tinh ra đời họ đọc phát âm sao thì ghi ta y chang vậy nên mới co các câu ca dao nói về âm dưỡng dục của cha mẹ bằng hai chữ “Cù Lao”. “Thương thay chín chữ cù lao Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình”. “Chín chữ cù lao” Cửu tự cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sinh dưỡng con cái. Chín chữ đó là Sinh 生 sinh đẻ. Cúc 鞠 nâng đỡ. Dục 育 dạy dỗ. Phủ 撫 vuốt ve. Xúc 蓄 cho bú sữa. Trưởng 長 nuôi cho khôn lớn. Cố 顧 trông nom. Phục 復 ôm ấp. Phúc 腹 bảo vệ. Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi Nói tiếp chơi còn một thứ cù lao nữa mà có lẽ bạn chưa nghe nói đến. Thứ “cù lao” này thuộc về lãnh vực ẩm thực trong tiếng Việt của miền Nam, mà “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức Khai Trí, Sài Gòn, 1970 giảng là “Cái lẩu, đồ đựng thức ăn có nước, giữa có ống đựng than lửa”. Bị chánh giữa cái nồi có cục nhô lên như mấy cái “cù lao” giữa sông nên dân gian gọi là cái Cù Lao. Trước năm 1955, khi tác giả của những dòng này chưa ra Bắc thì ở trong Nam, người ta vẫn còn gọi cái lẩu là “cù lao”. Lẩu là đồ đựng thức ăn có nước, giữa có ống đựng than lửa Đến năm 1975, khi trở về thì đã nghe bàn dân thiên hạ gọi cù lao thành lẩu. Thêm cái ngộ nghĩnh lắm nè Do tầm nhìn xưa còn hạn chế, nên dân Việt mình hồi lúc chưa được nhìn ra bao la thế giới mà chỉ lòng vòng trên sông nước. Người Việt chưa biết rằng xa thẳm ngoài đại dương cũng có những “cù lao” nổi trên mặt nước, thì họ tự cho rằng các “các cục đất nhô giữa sông hồ” đều là Pulao Cù lao còn Đảo tức cục đất nhô lên giữa lòng đại dương biển cả. Chữ Pulao trong tiếng Mã Lai và Đảo/島 trong tiếng Hán đều chỉ những hòn đảo dầu cho trên sông hay trên biển – tiếng Anh đều gọi là “Island” hết thảy. Do bởi đất Nam Kỳ từng là vùng đất dung dưỡng nhiều sắc tộc khác nhau cung chung sống nên ngôn ngữ văn hoá tôn giáo cung phong phú lắm. SỬ NƯỚC NAM Nguồn Facebook
Nhân mùa Vu Lan vừa rồi, có một ngôi chùa miền Trung treo bức đại tự “Công cha như núi ngất trời/ Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông/ Núi cao biển rộng mênh mông/ Cù lao chín chữ ghi lòng ai ơi”. Vậy cù lao trong câu ca dao nghĩa là gì, có liên quan gì đến cách gọi các hòn đảo ngoài biển hay không? Lễ Vu Lan báo hiếu. Ảnh Internet 1. Trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, tả tâm tư Thúy Kiều phân vân giữa mối tình với Kim Trọng và quyết định hy sinh bán mình chuộc cha, truyện có câu “Duyên hội ngộ, đức cù lao/ Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?” hay “Nhớ ơn chín chữ cao sâu/ Một ngày một ngã bóng dâu tà tà”. Chữ cù lao trong ca dao và Truyện Kiều có nghĩa khác hẳn so với danh từ cù lao, để chỉ các hòn đảo giữa sông, hay chí Kiến thức ngày nay số ra ngày tác giả An Chi giải thích, hai chữ Cù và Lao đồng nghĩa là nhọc nhằn, vất vả. Vì vậy chúng đi với nhau để tạo thành một từ ghép đẳng lặp nhằm diễn đạt một ý tổng quát hơn. Ông trích dẫn “Kinh Thi có câu “Cù lao vu dã”, nghĩa là thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta”. Tầm nguyên tự điển của Bửu Kế nói về chữ này cũng trích Kinh Thi “Ai ai phụ mẫu/ sinh ngã cù lao - thương xót thay cha mẹ sinh ta khó nhọc”. Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh NXB Duy Tân năm 1949 chú giải “Cù - Nhọc nhằn siêng năng/ Cù lao - siêng năng khó nhọc”. Với chữ lao, trong tự điển này giải thích “Nhọc lòng, nhọc sức - Khó nhọc - Công khó nhọc”.Tuy vậy trong câu ca dao trích dẫn trên, cù lao đến chín chữ Cửu tự cù lao, là gồm những chữ nào? Trong Tầm nguyên tự điển giải thích chín chữ đó gồm sinh đẻ, cúc nâng, đỡ, phủ vuốt ve, xúc cho bú, trưởng làm cho lớn, dục dạy dỗ, cố đoái tưởng đến, phục săn sóc, dạy bảo, phúc bảo vệ. Ngoài ra có một vài tự điển khác có cách giải thích khác đi một ít, ví dụ phục quấn quýt, xúc nuôi cho lớn… Nhưng nhìn chung các sách đều cùng một cách giải thích chín chữ cù lao có nghĩa công ơn dưỡng dục của cha Trong điển tích Phật giáo, Kinh Vu Lan báo hiếu có câu chuyện kể Tôn giả Mục Kiền Liên vượt qua trăm ngàn thử thách, gian khổ để đến địa ngục cứu mẹ. Ông hỏi “Làm thế nào để cứu mẹ của con?”, Đức Phật nói “Ngày âm lịch 15 tháng 7, sau ba tháng của các nhà sư tu tập phát tâm cúng dường tam bảo để lấy phước cứu mẹ”. Mục Kiền Liên theo lời Phật dạy tổ chức cúng dường chư tăng và từ đó mẹ của ngài được sanh về cõi lành. Lòng hiếu thảo của Mục Kiền Liên cao quý, từ đó mỗi năm vào rằm tháng 7, Phật giáo có đại lễ Vu Lan báo hiếu, ôn lại tích hiếu thảo của ông, nhằm nhắc nhở Phật tử luôn tưởng nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và bổn phận báo hiếu của người nhân dạy, người làm con với cha mẹ phải có năm cử chỉ “Phàm vi nhân tử giả, xuất tất cáo, phản tất diện, du tất hữu thường, tập tất hữu nghiệp, hằng ngôn bất xưng lão”. Nghĩa là Phàm làm con thì phải đi thưa, về trình, đi chơi thì phải chơi chỗ thường ngày, phải học tập có nghề nghiệp, thường nói năng khiêm tốn, không được huênh sách Mạnh Tử dạy năm việc sau đây được xem là bất hiếu “Nọa kỳ tứ chi, bất cố phụ mẫu chỉ dưỡng, nhất bất hiếu dã; Bác định, hiếu ẩm tửu, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhị bất hiếu dã; Hiếu hóa tài tư thê tử, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, tam bất hiếu dã; Tùng nhĩ mục chi dục, vi phụ mẫu lục, tứ bất hiếu dã; Hiếu dõng đấu ngân, dĩ nguy phụ mẫu, ngủ bất hiếu dã”. Nghĩa là Lười biếng trễ nải, chẳng đoái hoài việc nuôi cha mẹ, là điều bất hiếu thứ nhất; Mê cờ bạc, ham rượu chè, chẳng lo việc phụng dưỡng cha mẹ, là điều bất hiếu thứ hai; Ham mê tiền của, gom góp cho vợ con mà chẳng lo việc nuôi cha mẹ, là điều bất hiếu thứ ba; Buông lung theo thị dục của tai mắt, làm cho cha mẹ phải khốn đốn vì mình, là điều bất hiếu thứ tư; Ỷ sức, cậy tài đua tranh đánh lộn, làm cho cha mẹ phải bị vạ lây, là điều bất hiếu thứ Từ “cù lao”, Từ điển Từ cổ của Vương Lộc NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 2002 còn cho biết, đó là cái quai trên đầu quả chuông. Trong Chỉ Nam Ngọc Ân có trích dẫn câu ca dao “Bây giờ tính nghĩ làm sao/ Cho chuông ấm tiếng cù lao vững vàng”.Và một từ “cù lao” khác là danh từ được hiểu theo nghĩa là phần đất hoặc là núi nổi lên giữa biển. Ví dụ như ở Quảng Nam có Cù Lao Chàm, Quảng Ngãi có Cù Lao Ré nay gọi là đảo Lý Sơn… Trong sách Phủ biên tạp lục, học giả Lê Quý Đôn có viết “Phủ Thăng Hoa, ở ngoài cửa biển Đại Chiêm có núi to gọi là Cù Lao Chàm, ba ngọn đối nhau, hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư, ruộng nương; có các thứ cam, quýt, đỗ, lạc; trên có suối nước ngọt, một ngọn nhỏ mà khô khan, ra biển hai canh thì đến…”. Kế đó sách Đại Nam nhất thống chí, thời nhà Nguyễn chính thức định danh “… cách huyện Diên Phước 68 dặm về phía Đông, ngất ngưởng giữa biển gọi là đảo Ngoạ Long, cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao; dân phường Tân Hợp ở phía Nam núi; ruộng đất trên núi có thể cày cấy, thuyền bè nước ta thường trông núi này làm chừng đi về đều đỗ ở đấy để lấy củi nước…”.Cù Lao Chàm nay trên bản đồ hành chính thuộc An, với tên xã Tân Hiệp có phải chuyển từ tên Tân Hợp trong Đại Nam nhất thống chí chăng?. Người dân ven biển Hội An, Duy Xuyên gọi gọn hòn đảo này là Lao. Dân gian vùng này có ca dao “Ra Lao đốn Lụi thật Dài/ Chờ Mồ Khô Lá, xuống Tai chực Nờm nồm” ghi nhớ tên của 7 đảo nhỏ tại đây - Lao, Lụi, Dài, Mồ, Khô, Tai, Lá, trong đó Lao là hòn đảo lớn nhất, có dân cư sinh sống, còn các đảo khác tùy theo hình dáng hoặc thực vật, động vật đặc hữu trên đó mà đặt tên…
"Công cha như núi ngất trờiNghĩa mẹ như nước ở ngoài biển ĐôngNúi cao biển rộng mênh môngCù lao chín chữ ghi lòng con ơi!” Chiều ngày 28/6/2019 tức ngày 26/05 Kỷ Hợi, Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh đã có một thời Pháp thoại về hiếu đạo vô cùng ý nghĩa với hàng ngàn khóa sinh của Khóa tu mùa hè lần I. Bài giảng của Sư Phụ đã giúp các em cảm nhận và thấu hiểu hơn về công lao của mẹ - người đã cả một đời vất vả sớm khuya để dành cho con mình những điều tốt đẹp nhất. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh “Đức mẹ hiền chín chữ cù lao” trong bài giảng của Sư Phụ đã tái hiện lại được chặng đường dài mà mẹ phải trải qua để nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Thuật ngữ “cù lao” bao gồm chín ơn lớn đã phần nào khắc họa lên sự chăm sóc, hy sinh, tình yêu thương của người mẹ dành cho người con. Chín chữ cù lao ấy là Sinh - Cúc - Phủ - Súc - Trưởng - Dục - Cố - Phục - Phúc. Các bạn khóa sinh thành kính tri ân Sư Phụ về bài giảng ơn đức của mẹ "chín chữ cù lao" 1. Chữ "Sinh" Đầu tiên là chữ “Sinh”. Không ai có mặt trên đời mà không từ mẹ sinh ra. Khi mang thai, người mẹ hạnh phúc lắm vì mẹ coi đứa con của mình như ngọc như vàng, coi con như là tất cả của mẹ. Nhưng bên cạnh đó mẹ cũng rất lo lắng, chịu bao cơ cực mong sao cho đứa con bé bỏng của mình được khỏe mạnh, thông minh. Đến khi sinh nở, mẹ phải trải qua những nỗi đau đớn về thể xác mà chỉ có mình mẹ hiểu được; thậm chí dù có phải đánh đổi mạng sống của mình để con được chào đời an toàn thì mẹ cũng vẫn sẵn sàng hy sinh. Nguy hiểm là thế, khó khăn là thế nhưng được nghe tiếng khóc đầu đời của con là mẹ luôn nở nụ cười hạnh phúc và mãn nguyện. 2. Chữ "Cúc" Rồi đến chữ “Cúc”. “Cúc” đó là ẵm bế, nâng niu. Người mẹ nâng đỡ con khi con vẫn còn là sinh linh bé nhỏ nằm trong bụng mẹ. Và khi con ra đời, mẹ luôn chăm nom, nâng đỡ, chỉ cần con khóc là mẹ lại bế con lên dỗ dành. Khi đứa con bước những bước chân đầu đời, con vấp ngã, mẹ cũng dịu dàng nâng con dậy, lo lắng sợ con đau. Quả thật, không ai yêu quý con bằng mẹ; mẹ thương con vô bờ bến, công ơn của mẹ lớn tựa biển trời. 3. Chữ “Phủ” Tiếp là chữ “Phủ”. “Phủ” có nghĩa là ôm ấp. Ngay từ khi sinh ra, bất kì người con nào cũng sẽ được đón nhận hơi ấm từ người mẹ, được nép mình trong vòng tay mẹ, được mẹ chở che. Nhất là trong đêm đông giá lạnh, ấp vào lòng mẹ, được mẹ hà hơi sưởi ấm có lẽ là điều hạnh phúc nhất thế gian. 4. Chữ “Súc” Sau là chữ “Súc”. Mẹ cho con bú mớm, lo từng miếng ăn cho con mỗi ngày. Ngay từ khi lọt lòng, người con đã được hưởng dòng sữa mẹ bao la. Có những gia đình nghèo không có bột nấu cho con ăn, người mẹ phải nhai cơm rồi mớm cho con. Khi đứa con biếng ăn, mẹ luôn chăm lo dỗ dành từng chút một mong sao cho con mình hay ăn chóng lớn để luôn khỏe mạnh. Đó chính là ý nghĩa của chữ “súc”. 5. Chữ "Cố" Chữ “Cố” thì sao? Chữ “Cố” là mẹ luôn chăm nom, mong ngóng, không lúc nào rời mắt khỏi các con. Những bước chân chập chững đầu đời của con, mẹ là người đầu tiên dõi theo. Bước chân tuy nhỏ bé nhưng lại là niềm hạnh phúc to lớn của mẹ. Cho đến khi con lớn lên, mẹ vẫn hằng trông mong con; cùng con đồng hành từ những chặng đường đầu tiên của cuộc đời đến khi con thành đạt. Chỉ đến lúc mẹ khuất núi thì ánh mắt dõi theo con mới dừng nghỉ mà thôi. 6. Chữ “Dục” Còn chữ “Dục” thế nào? Chữ “Dục” thể hiện sự dạy dỗ, kèm cặp con nên người của mẹ. Người mẹ chính là cô giáo đầu tiên trong cuộc đời của con. Từ câu nói đầu đời, câu chào hỏi dạ thưa cho đến những điều hay lẽ phải cũng đều là mẹ dạy cho con. Rồi con biết đọc, biết viết; con biết chăm sóc, yêu thương ông bà, cha mẹ và mọi người. Những điều đó mẹ đều theo sát, chỉ bảo tận tình cho con. Mẹ cũng là người gần gũi nhất, là người đóng góp công sức nhiều nhất cho sự trưởng thành của con. 7. Chữ “Trưởng” Chữ “Trưởng” là sao? Mẹ nuôi nấng con từ trong bụng đến khi trưởng thành. Đây quả là một hành trình đầy gian lao, vất vả. Từ khi còn bé thì mẹ lo con đau ốm, biếng ăn; ở độ tuổi con đi học thì mẹ tần tảo sớm khuya để nuôi ăn học, mong sao cho con trưởng thành. Thậm chí khi con trưởng thành rồi, mẹ vẫn chưa hết lo. Thật đúng với câu “Mẹ già trăm tuổi vẫn thương con tám mươi.” 8. Chữ “Phục” Với chữ “Phục” là thế nào? Với chữ “Phục”, ta hiểu rằng mẹ luôn thăm non, gần gũi và dành sự quan tâm đặc biệt cho đứa con của mình. Mỗi khi đi xa, người mẹ luôn nhớ con, lo cho các con nhiều lắm. Rồi khi con ốm, mẹ thức trắng đêm dài vì lo lắng, xót xa đứa con. Và chắc chắn một điều rằng mẹ là người gần gũi nhất, dù bất cứ chuyện gì xảy ra thì mẹ vẫn ở bên cạnh ủng hộ, yêu thương con hết lòng. 9. Chữ “Phúc” Cuối cùng là chữ “Phúc”. Chữ “Phúc” là mẹ bao bọc, che chở những người con. Mẹ luôn là chỗ dựa vững chắc nhất cho con; con đi bất cứ đâu cũng có vòng tay mẹ để trở về, dù con lớn khôn nhưng với mẹ vẫn là đứa con bé bỏng mẹ thường chăm lo. Mẹ cũng là người luôn sẵn sàng hy sinh mọi thứ để cho đứa con của mình có được một điều tốt đẹp nhất, vòng tay mẹ luôn mở rộng đón đứa con thơ trở luôn là thế đấy! Một người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng lại gánh vác được tất cả mọi thứ trên vai. Mẹ không quản ngại mưa nắng, phong ba để nuôi con thành người, luôn là nơi chốn để con quay về. Các bạn khóa sinh gửi những trái tim yêu thương đến cho cha mẹ sau khi được Sư Phụ giảng về ơn đức mẹ "chín chữ cù lao" Qua câu “Chín chữ cù lao” trong bài giảng “Mẹ yêu ơi!”, Sư Phụ đã giúp các bạn hiểu hơn về công ơn nuôi dưỡng của mẹ - người mình phải suốt đời mang ơn và báo hiếu. Những lời giảng thấm đượm tình hiếu đạo của Sư Phụ sẽ là bài học và hành trang quý báu cho tất cả các bạn khóa sinh. Thấu hiểu, yêu thương, chăm sóc và là một người con có hiếu để đền đáp công ơn như trời biển của mẹ là những gì các bạn đã hiểu được khi nghe Sư Phụ giảng. Hy vọng sau khi về nhà, các bạn khóa sinh sẽ trở thành những người con ngoan, hiếu thảo và luôn khắc ghi “chín chữ cù lao” để báo đáp công ơn của mẹ! Hạnh Liên
Câu 8 Đọc bài ca dao sau đây “Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”Bài ca dao trên là lời của ai nói với ai?.A. Lời của cha mẹ nói với con Lời của ông bà nói với con Lời của mẹ nói với con Lời của anh em khuyên nhủ lẫn 9 Đọc câu ca dao sau đây Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả ảnh con tằm trong câu ca dao trên nói đến cuộc đời, thân phận của những ai trong xã hội ngày xưa?A. Những cuộc đời nô lệ, suốt đời bị bóc lột sức lao Những thân phận nhỏ nhoi vất vả, khổ cực suốt đời mà vẫn nghèo Những cuộc đời lận đận, phiêu bạt tha phương để kiếm Thân phận thấp cổ bé miệng với nổi khổ, nổi đau oan trái suốt 10 Câu thơ nào trong bài “Bánh trôi nước” miêu tả vẻ đẹp về hình thể của người phụ nữ?A. Câu 1 B. Câu 2C. Câu 3 D. Câu 4Câu 11 Đọc những câu ca dao sau đây Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm định ý nghĩa của điệp ngữ “Thương thay” trong những câu ca dao Phản ánh chân thật nỗi khổ của người nông dân ngày Nhấn mạnh nỗi khổ của người nông dân ngày Lên án nỗi khổ của người nông dân ngày Đồng cảm sâu sắc với thân phận người nông dân ngày 12 Trong văn bản “M ẹ tôi” của Et -môn-đô -đơ A -mi-xi . Em hãy cho biết bố của En - ri -cô là người như thế nào?A. Rất thương yêu và nuông chiều conB. Luôn nghiêm khắc và không tha thứ lỗi lầm cho conC. Yêu thương, nghiêm khắc và tế nhị trong việc giáo dục Luôn thay thế mẹ giải quyết mọi vấn đề trong gia 13 Câu nào nêu đúng nội dung chính bài “Phò giá về kinh”.A. Thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc .B. Lời động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu chống kẻ thù .C. Lời ca ngợi tinh thần chiến đấu chống kẻ thù xâm lược .D. Là khúc ca khải hoàn mừng chiến 14Tâm trạng của tác giả trong bài “Qua Đèo Ngang”là tâm trạng như thế nào?A. Yêu say đắm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất Đau xót, ngậm ngùi trước sự đổi thay của quê Buồn thương da diết khi phải sống trong cảnh cô Cô đơn trước thực tại, da diết nhớ về quá khứ của đất Tiếng Việt Câu 15 Tìm từ trái nghĩa phù hợp để điền vào câu sau đây “ Xét mình công ít tội …..”A. Đầy B. Nhiều . C. Giàu D. HaiCâu 16Trong các dòng sau đây, dòng nào nêu đúng khái niệm thành ngữ? ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn ngữ là loại cụm từ có vần, có điệu biểu thị một ý nghĩa hoàn Thành ngữ là một tổ hợp từ có danh từ hoặc tính từ làm trung Thành ngữ là một kết cấu chủ vị, biểu thị một ý nghĩa hoàn 17 Xác định từ láy trong những từ sau đây A. Đằng đông B. Sáng sớm C. Thơm tho D. Đây 18 Xác định từ Hán Việt trong những từ sau đây A. Nhân loại . B. Dịu dàng . C. Yêu mến D. Buồn phiềnCÂU 19 Đọc hai câu thơ sau đây “Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trông dòng thác trước sông này”Hãy xác định từ đồng nghĩa với từ trông ở câu thơ thứ hai . A. Mong B. Nhìn C. Đợi D. ChờCâu 20 Câu nào nêu đúng khái niệm từ đồng nghĩa? đồng nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống đồng nghĩa là những từ phát âm giống nhau nhưng có nghĩa khác xa Từ đồng nghĩa là những từ giống nhau cả về âm thanh và ý 21Trong câu“Nhà bạn có bao nhiêu người? ” Đại từ“ bao nhiêu”dùng đểA. Chỉ về người B. Chỉ về lượngC. Hỏi về người D. Hỏi về hoạt động tính 22 Từ nào sau đây đồng nghĩa với từ “Thi nhân” A. Nhà thơ B. Nhà báo C. Nhà văn D. Nghệ 23Trong những dòng sau đây, dòng nào là thành ngữ có dùng phép so sánh?A. Một nắng hay sương B. Lá lành đùm lá ráchC. Đen như cột nhà cháy . D. Ếch ngồi đáy giếng .
cù lao chín chữ ghi lòng con ơi